HomeBài viết khácBài viết chung về y tế

Y tế Việt Nam sau 10 năm đổi mới – BS Nguyễn Đức Kiệt

Y tế Việt Nam thời đổi mới

Y tế Việt Nam thời đổi mới

Đông dược Phú Hà – Cách đây đúng 10 năm, mô hình bệnh tật của Việt Nam là mô hình điển hình của một nước đang phát triển với các bệnh chủ yếu là: Nhiễm khuẩn, ký sinh trùng và suy dinh dưỡng. Theo số liệu thống kê năm 1989, tỷ suất sinh thô (là số trẻ sinh ra sống tính trên 1000 người dân trong một năm nhất định) là 31,3 phần nghìn, tỷ suất chết thô (là số người chết tính trên 1000 người dân trong một năm nhất định) là 8,4 phần nghìn, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 2,29% tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 4,6% tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng là 49%, tỷ lệ trẻ sơ sinh dưới 2500g là 10,8%, tuổi thọ trung bình ở nam là 63 và ở nữ là 67,5 tuổi…

Sau hơn 10 năm đổi mới, đặc biệt trong 10 năm qua ngành y tế đã nỗ lực vượt bậc và liên tục thu được những thành tựu quan trọng. Với sự ra đời Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân tiếp theo là những quyết định về chính sách mang tính đột phá như: bảo hiểm y tế, thu một phần viện phí, hành nghề y dược tư nhân, chính sách chế độ đối với cán bộ y tế xã ,v.v… và gần đây là tổ chức y tế địa phương… đã làm cho ngành y tế thích nghi được với tình hình mới.

Đồng thời với các chính sách mới, ngành y tế cũng thay đổi phương thức quản lý, từ cấp kinh phí theo đầu giường bệnh đã chuyển sang cấp kinh phí theo đầu người dân. Năm 1999 nguồn chi cho y tế có 61% là do ngân sách nhà nước cấp, 16,4% từ bảo hiểm y tế, 9,3%  từ thu viện phí và 13,3% từ viện trợ.

Nhờ có hoạt động theo chương trình mà một loạt chỉ tiêu quan trọng về bảo vệ sức khoẻ của nhân dân đã liên tục được cải thiện. Các bệnh dịch và truyền nhiễm ngày càng được khống chế, kiểm soát và ngăn chặn, không để dịch lớn xảy ra. Bệnh Sốt rét từ 1.300.000 người bị mắc với 1.400 người bị chết vào năm 1989 xuống chỉ còn 300.000  người mắc với 142 người bị chết trong 9 tháng năm 1999. Tỷ lệ dân được bảo vệ chiếm tới 85% trong tổng số dân sống trong vùng có bệnh sốt rét lưu hành. Tỷ lệ dân được bảo vệ không bị nhiễm Lao tới 90%. Tỷ lệ mắc và chết do 6 bệnh truyền nhiễm phổ biến ở trẻ em đã giảm rất rõ rệt. Các bệnh tiêu chảy, viêm nhiễm đường hô hấp cấp ở trẻ em, suy dinh dưỡng v.v… cũng giảm đáng kể. Việc Việt Nam quyết tâm thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000, thanh toán bệnh phong, ngăn chặn sốt rét, lao và hạn chế lan truyền căn bệnh của thế kỷ HIV/AIDS, vấn đề vệ sinh môi trường, vận động nhân dân xây dựng và duy trì sử dụng 3 công trình vệ sinh phân, nước, rác; việc phòng chống dịch bệnh sau bão, lũ lụt nhất là không để dịch xảy ra sau cơn bão số 5 ở miền Nam và 2 trận lụt ở miền Trung… có công đóng góp không nhỏ của ngành y tế.

Ngành Y tế đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Số người khám chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh ngày càng đông, nhất là người nghèo, vùng nghèo, đồng bào thiểu số và những vùng thuộc diện chính sách ưu đãi của nhà nước. Việc cho phép hành nghề y dược tư đã đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao về chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Việc nước ta được nhận giải thưởng dân số của Liên hợp quốc năm 1999 có phần đóng góp đáng kể của ngành y tế.

Ngành y tế đã đào tạo được một đội ngũ thày thuốc đông về số lượng, mạnh về chất lượng.

Việc cung ứng đủ thuốc chữa bệnh cho dân là cố gắng lớn của ngành. Bình quân tiền thuốc trung bình một năm cho người dân tăng từ 0,5USD những năm 1980 đã tăng 5,2USD năm 1999. Thuốc sản xuất trong nước đã đáp ứng 40% nhu cầu chữa bệnh của nhân dân; xuất khẩu tăng gấp 4 lần so với những năm trước đây.

Củng cố y tế cơ sở làm tăng cơ hội tiếp cận với dịch vụ y tế của người dân, tổ chức lại mạng lưới khám chữa bệnh, đưa bác sĩ về xã, khôi phục đội ngũ y tế thôn bản, đảm bảo đủ nữ hộ sinh, y sĩ sản nhi cho các trạm y tế cơ sở… là điều kiện tốt cho việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân.

Đổi mới tổ chức và quản lý y tế cũng là một thành tựu đáng kể của ngành y tế. Việc ra đời Vụ pháp chế, Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, cải tiến hệ thống y tế địa phương, sắp xếp lại hệ thống Dược, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho tất cả cán bộ y tế, xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ của cán bộ công chức, viên chức, ban hành quy chế dân chủ bệnh viện, ban hành 12 điều quy định về y đức, hoàn thiện các quy chế chuyên môn, v.v… đã đưa hoạt động ngành y tế nâng cao lên một bước về chất, theo kịp tiến trình phát triển chung của đất nước và hội nhập với khu vực và thế giới.

Tóm lại, 10 năm qua dưới ánh sáng các Nghị quyết của Đảng, bằng cách đi năng động, sáng tạo, biết dựa vào dân, xã hội hoá, đa dạng hoá, đổi mới cơ chế quản lý, phát huy nội lực, tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài, ngành y tế đã vượt qua chặng đường thử thách gay go, tiến lên giành được những thành tựu đáng kể, giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi từ 4,6% xuống còn 3,7%, suy dinh dưỡng từ 49% xuống còn 39% trẻ đẻ thiếu cân (<2500g) từ 10,8% xuống còn 7%, tỷ lệ phát triển dân số từ 2,29% xuống còn 1,75%, tuổi thọ trung bình tăng từ 63 tuổi ở nam, 67,5 tuổi ở nữ lên 64,9 tuổi ở nam và 69,6 tuổi ở nữ… đã cho thấy tình hình sức khoẻ của nhân dân ta trong 10 năm qua đã được cải thiện rất rõ rệt. Theo các nhà  kinh tế y tế nước ngoài, với mức chi như vậy, trong điều kiện khó khăn như vậy mà kết quả đạt được như trên, quả là một thành tích đáng tự hào của ngành y tế Việt Nam./.

Hà Nội, mùa Đông 1999

(Bài đã đăng trên Báo Sức khỏe & Đời sống)

 

COMMENTS